1. Mô Kim (Mạc Kim Giáo Úy)
Căn cứ 《 Trung Quốc ĐạoMộ Sử 》,Mô Kimđược coi là một cái nghề nghiệp trong lịch sử thời Tam Quốc, doTào Tháo mở ra,thủ hạ có một chi quân đội vì gom góp quân lương, chuyên môn đào lăngmộ các vương công quý tộc,thậm chí là lăng mộ ĐạiHán, mọi người đem chứcquan của chiquân đội trộm mộgọi làMạc Kim giáo úy.
Bạn đang xem: Mô kim hiệu úy
Mạc Kim giáo úy am hiểu nhất là《 Tầm Long Quyết》 cùng 《 Phân Kim Định Huyệt》, lúclàm việc thường đeo 《 Mạc Kim Phù》, phàm là đạo được mộ lớn, ở bên trong cung điện củalăng mộ đều phải đốt một ngọn nến đặt ở phía đông nam. Sau đó mở quan tài mò kim, thứ đáng giá nhất thường thường đeo trên người chết, một ít mộ chủ cấp bậc vương hầu trở lên, đều là ngậm châu trong miệng, trên người khoác kim ngọc, trước ngực đeo hộ tâm ngọc, trong tay nắm ngọc như ý, thậm chí trong hậu môn còn gắn bảo thạch. Lúc động thủ không thể làm hư hao di hài người chết, nên lưu lại một - hai bảo vật, lúc này, nếu ngọn nến góc đông nam bị tắt, nhất định phải đem tài vật để lại chỗ cũ, sau đó lạy ba lạy, theo đường cũ mà ra.
Ngày sau, mô kim dần dần hình thành môn phái, người đốt nến, quỷ thổi đèn là bí mật bất truyền củamô kim phái, ý là khi vào cổ mộ, trước tiên phải đốt một ngọn nến đặt ở góc đông nam thì mới có thể mở quan tài, nếu như nến tắt, phải nhanh chóng rời khỏi cổ mộ, không thể mang theo bất kỳ tài vật nào. Tương truyền đây làtổ sư gia địnhrakhế ước giữa người sống và người chết, truyền thừa ngàn năm, không thể phá lệ, ngoài ra còn có cách gọi khác là"gà gáy, đèn tắt, không mò kim".
Hậu nhân về sau căn cứ theo vùng miền mà chia thành Nam phái cùng Bắc phái, so với Nam phái cầm được đồ liền đi thì Bắc phái quy củ hơn một chút.
Kim chỉ nam của mô kim chính là《 Thập Lục Tự Âm Dương Phong Thủy Bí Thuật》 do Trương Tam Liên đời nhà Thanhsáng tạo ra, trong đó bao quát âm dương, phong thủy, tên là thập lục tự nhưng thực ra mỗi một chữ là một quyển. Có thể nói《 Thập Lục Tự Âm Dương Phong Thủy Bí Thuật》 là một bộ《 MôKim Đổ Đấu Chỉ Nam 》hàng thật giá thật, bất quá quyển này chỉ là bản thiếu, đại bộ phận Âm Dương quyển đều đã thất truyền, nay chỉ còn Phong Thủy quyển.
Ở trong《 Đạo Mộ Bút Ký》cùng《 Ma Thổi Đèn》, Mạc Kim giáo úy được thổi đến mức thần hồ kỳ thần.
2. Phát Khâu (Phát Khâu Thiên Quan)
Phát, khái phá, khâu, phầnmộ,tên khác làPhát KhâuTrung Lang Tướng, Phát Khâu Thiên Quan, Phát KhâuLinh Quan. Đến Hậu Hán mới có, cùng Mô Kimđồng xuất một mạch, thủ đoạn cùng Mạc Kim giáo úy cơ hồ hoàn toàn tương tự, chỉ là nhiều thêmmột cái《Phát Khâu ThiênẤn 》, bên trên ấn có khắc tám chữ"thiên quan tứ phúc, bách vô cấm kỵ".
Nghe đồn cái ấn này đã bị hủy ở thời Minh, thế gian không còn《Phát Khâu ThiênẤn 》.
Thủ pháp của Phát Khâu xuất cùng một mạch với Mô Kim nhưng kỹ thuật lại kém hơn Mô Kim, tuy rằng kém hơn Mô Kim nhưng lại thắng ở chỗ hợp tác giữa đám người. Ở cổ đại thường lấy hiệu cầm đồ "Triêu Phụng" để che giấu, rất ít khi xuất thủ.
Mỗi khi Phát Khâu xuất thủ, thường thường nhằm vào lăng mộ cỡ lớn, là môn phái duy nhất không cố kỵ mà hợp tác với chính phủ. Tại nhà Thanh bị người hãm hại mà lưu vong hải ngoại, thường hoạt động ở Đông Nam Á cùng Châu Mỹ, ở rất nhiều lần khai quật lăng mộ cỡ lớn thường thấy qua thân ảnh của Phát Khâu. Ở trong nước cũng thấy bọn họ dùng thân phận khảo cổ học mà trà trộn vào ban nghành chính phủ.
Đối với luật lệ của Phát Khâu, mỗi lần hành động đều mời họp rất nhiều người, chuẩn bịtốt chi tiếtkế hoạch, cho nên Phát Khâu trộm mộ thường thường rất ít gặp nguy hiểm nhưng mà phiền phức nhất chính là chia của cùng bảo mật tin tức, bởi vậy luật lệ của Phát Khâu rất nhiều.
Xem thêm: Các Bài Tập Bụng Ở Nhà Để Có Bụng Phẳng, Eo Thon Cho Nữ, Top 5 Bài Tập Bụng Tại Nhà Vô Cùng Hiệu Quả
3. Bàn Sơn (Bàn Sơn Đạo Nhân)
Trong lịch sử trộm mộ, Bàn Sơn cũng là một lưu phái, khởi nguyên từ Tây Vực sông Khổng Tước cùng Hắc Sơn lưu vực. Ởcổ đại có một số vương lăng dùng đồi lớn hoặc là núi làm lăng mộ,Bàn Sơn trộm mộchính là dời đi một bộ phận đất đai lộ ra thần đạo, sau đó bắt đầu hoạt động trộm mộ. Ban Sơn cùng ba nhà khác cũng có quy tắc của mình.
Bàn Sơn thường thường đóng vai phương sĩ hành tẩu thiên hạ, không cùng ngoại nhân vãng lai, đặc lập độc hành, năng nhân dị sĩ xuất hiện lớp lớp, trộm mộ thường là cầu bất tử tiên dược.
Bàn Sơn người thiện dùng Bàn Sơn Phân Giáp Thuật, thuật này cũng chia thànhBàn Sơn Điền Hải Thuật cùngPhân Sơn Quật Tử Giáp, hợp xưng Bàn Sơn Chi Thuật.Mỗi khitrộm mộ, căn bảnđều dùngbàn sơndị thuật làm việc, bàn sơnthuật tuy thuộc dị loại phương thuật, nhưng trong đó bao gồmcác loại phương kỹ, pháp môn, quyết ngữ, cũng không phải lấy《 Dịch》 làmtổng cương, cho nên cùngMạc Kim giáo úyphong thuỷ bí thuật hoàn toàn khác biệt.
4. Tá Lĩnh (Tá Lĩnh Lực Sĩ)
Bắt nguồn cuối thời Hán,chúng lực thủ lợi, chia của tụ nghĩa, nhân số ít thì thành trăm, nhiều có thể đếnhàng ngàn, làm việc thường thường bất chấp hậu quả, dùng man lực đi trộm mộ, không từ thủ đoạn.
Tá Lĩnh phân khắp thiên hạ, hoặc tụ tập ở núi, gặp cổ mộ cỡ lớn, chen chúc mà lên, hợp lực phá mộ, hủy thi san mộ, vơ vét bảo tàng, một chút cũng không chừa lại, bắt chước nghĩa quân Xích Mi mà làm.
Bởi vì trộm cũng có thuật, Tá Lĩnh trộm mộ thuậtchính là dựa vào khí giới, lưu truyền hai ngàn năm cũng không phải hạng vô danh.
Tá Lĩnh bắt đầu từ cuối Hán, cường thịnh ở Đường - Tống, xuống dốc ở Minh - Thanh, đến thời dân quốc thì mai danh ẩn tích.
Nghe nói uy chấn bát phương Lữ Bố từng là môn hạ của Tá Lĩnh, từng giúp Đổng Trác trù bị quân lương mà trộm lăng mộ Tần Thủy Hoàng, đào không ít lăng mộ nhà Hán.
Ở thời Nguyên Mông, Tá Lĩnh căm thù chính quyền Nguyên Mông mà phá đi phong thủy của lăng mộThành Cát Tư Hãn cùng với mấy cái lăng phụ của Thành Cát Tư Hãn, vì chuyện này mà Tá Lĩnh bị Mông Cổ tổ chức sát thủ truy sát mà mai danh ẩn tích.
Tá Lĩnh người, có thể trộm mộ, có thể làm cường đạo, cũng có thể làm hiệp khách...
Tại Tá Lĩnh, trong tác phẩm Ma Thổi Đèn phần Nộ Tình Tương Tây có cái mù lòa tên Trần Ngọc Lâukhá là nổi danh, nhớ năm đó trộm mộ tại Bình Sơn,tụ tập hơn 10 vạn người, có thể thấy được hắn cũng không phải hạngngười bình thường.